Đồng bằng sông Cửu
Long – một điểm đến không còn xa lạ với du khách trong và ngoài nước những năm
gần đây. Trải dài gồm 13 tỉnh và 01 thành phố, ĐBSCL mang nhiều nét đặc trưng
về tự nhiên và văn hóa tạo ra một sức hút đặc biệt cũng như tiềm năng lớn để
phát triển hơn nữa hoạt động kinh doanh du lịch. Bên cạnh đó, cũng còn nhiều
vấn đề cần giải quyết, nổi cộm nhất chính là tính dễ trùng lắp của sản phẩm
dịch vụ ở từng địa phương trong Vùng – đây cũng là yêu cầu cấp thiết để phát
triển du lịch bền vững ĐBSCL.
Du lịch Việt Nam trong
khoảng hai thập kỷ trở lại đây đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về số lượt
khách quốc tế và cả nội địa, tổng doanh thu cũng như có sự đóng góp đáng kể vào
tổng sản phẩm quốc dân Việt Nam. Hình ảnh du lịch quốc gia đã được biết tới trên
thị trường du lịch khu vực và thế giới… Tuy nhiên, ngành du lịch vẫn còn tiềm ẩn
nguy cơ phát triển không bền vững, hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch chưa
được như mong đợi, trong đó, những tồn tại về sản phẩm du lịch luôn là vấn đề cần
được quản tâm hàng đầu.
Đồng bằng Sông Cửu Long
có nhiều tiềm năng phát triển du lịch về vị trí địa lý tự nhiên; có tính đa dạng
hệ sinh học cao, có những đặc thù riêng về hệ động, thực vật phong phú, đa dạng... Ngoài ra, còn có các cảnh quan sông nước,
ven biển cùng nhiều tài nguyên nhân văn đậm đà bản sắc con người Nam bộ…
Thế nhưng, hoạt động du lịch tại Đồng bằng Sông Cửu Long
không nằm ngoài diễn tiến chung của du lịch Việt Nam cũng như thực trạng của một
vài địa phương bước đầu khai thác thế mạnh du lịch như: một số tuyến giao thông
chưa đáp ứng nhu cầu vận chuyển du lịch, thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa cơ
quan nhà nước và doanh nghiệp du lịch; đặc biệt là sản phẩm du lịch chưa sáng tạo,
dễ trùng lắp chưa đủ thu hút để tạo sức hấp dẫn với du khách: số lượng khách du
lịch quay trở lại Vùng, lưu trú hay tham quản tour dài ngày chưa cao…do vậy, hiệu
quả kinh tế chưa cao.
Từ những nhận
định trên, đề tài “Thực
Trạng Và Giải Pháp Sản Phẩm Du Lịch Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long ”- được thực hiện nhằm góp phần tìm hiểu một cách có hệ thống thực
trạng, cũng như đưa ra những giải pháp khả thi nhằm phát triển, nâng cao sản phẩm
du lịch của Vùng, thúc đẩy hiệu quả kinh tế từ Du lịch – xứng đáng vị thế, tiềm
năng và định hướng trong tương lai của Du lịch Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
Thực trạng khai thác sản
phẩm du lịch của Vùng
Hệ thống tài nguyên du lịch tự nhiên và
tài nguyên du lịch nhân văn vùng ĐBSCL bao gồm: các vùng sinh thái nhiệt đới,
sông ngòi, kênh rạch khá phát triển, các vùng sinh thái còn tương đối hoang sơ
với sự đa dạng các loài động thực vật, các vùng biển, đảo nghỉ dưỡng gần gũi với
thiên nhiên, đặc biệt là Đảo ngọc Phú Quốc. Trong thời gian qua, tiềm năng du lịch
tự nhiên của ĐBSCL mới được khai thác một phần để phát triển du lịch, các địa
phương vùng ĐBSCL đang từng bước khai thác tiềm năng, thế mạnh đặc trưng của
mình đặc biệt là những tài nguyên thiên nhiên để tạo nên những sản phẩm du lịch
độc đáo, mang những nét đặc trưng riêng của Vùng. Qua nghiên cứu cho thấy vùng
ĐBSCL có thể phát triển các loại hình du lịch đặc trưng căn cứ vào thế mạnh của
Vùng như:
-
Du lịch sinh thái
-
Du lịch khai thác các giá trị văn hóa sông
nước miệt vườn.
-
Du lịch khám phá
-
Du lịch nghỉ dưỡng.
-
Du lịch sinh thái biển đảo.
-
Du lịch MICE.
Vùng ĐBSCL mang tính chất
của đồng bằng tiếp giáp biển, có điều kiện khí hậu ấm áp nên có nhiều tài
nguyên tự nhiên có thể khai thác phục vụ phát triển du lịch. Đặc biệt, khu vực
này có hệ sinh thái phong phú mang nhiều tính chất khác nhau như biển, đảo, cửa
sông, đất ngập nước, cù lao châu thổ…nên có nhiều thuận lợi để phát triển du
lịch sinh thái. Cũng do điều kiện khí hậu ấm áp, thuận lợi nên du lịch ĐBSCL
không chịu ảnh hưởng mạnh bởi tính "mùa vụ" do tác động của thời
tiết. Các tài nguyên du lịch tự nhiên của Vùng phân bố tương đối đồng đều, dễ
tiếp cận nên các địa phương trong khu vực có nhiều thuận lợi khi khai thác tiềm
năng phục vụ cho phát triển du lịch. Do ảnh hưởng của tính chất địa hình và khí
hậu đồng đều trên khắp vùng lãnh thổ nên các tài nguyên du lịch tự nhiên của
mỗi địa phương mang nhiều nét giống nhau, do vậy đây cũng là thách thức đối với
từng địa phương khi khai thác tài nguyên tạo các sản phẩm du lịch đặc trưng cho
từng địa bàn.
Tài nguyên du lịch nhân
văn của vùng đa dạng, phân bố rộng khắp, mỗi địa bàn có những đặc thù riêng.
Tiềm năng về du lịch nhân văn của Vùng cũng đa dạng bao gồm đền, chùa, các lễ
hội, các loại hình văn hoá dân gian, các di tích lịch sử…Với lịch sử dựng nước
và giữ nước lâu đời, ĐBSCL có nhiều di tích lịch sử văn hóa cách mạng có giá
trị, cùng với nền văn hóa truyền thống đa dạng, giàu bản sắc, đây là vốn văn
hóa quí báu cũng như là tài nguyên du lịch có giá trị.
Trong Thời gian qua, các tuyến điểm du lịch
đã được các doanh nghiệp du lịch vùng ĐBSCL tổ chức khai thác một cách triệt để
và có hiệu quả, đảm bảo khai thác đúng với tiềm năng du lịch của các tỉnh trong
Vùng từ đó đã tạo nên các sản phẩm du lịch độc đáo, mang tính đặc trưng của
Vùng như: tour lễ hội, tour mùa nước nổi, tour văn hóa, tour làng nghề, tour biển
đảo, tour sinh thái…một số tour phổ biến ở vùng ĐBSCL thu hút được nhiều du
khách trong và ngoài nước như: Tour Phú Quốc, tour Tiền Giang – Bến Tre, tour
Vĩnh Long – Chợ nổi Cái Bè, tour Châu Đốc – Núi Bà Chúa Xứ, tour Châu Đốc – Hà
Tiên – Cần Thơ – Phú Quốc, tour Cần Thơ – Hậu Giang,…Ngoài ra, vùng ĐBSCL còn
có các khu du lịch tổng hợp Quốc gia như Khu du lịch sinh thái biển đảo Phú Quốc
(Kiên Giang), Khu dự trữ sinh quyển mũi Cà Mau. Trong tương lai khu rừng ngập mặn
Cà Mau sẽ nằm trong 10 khu du lịch trọng điểm Quốc gia. Điểm nổi bật nhất là đảo
Phú Quốc được xác định là khu du lịch biển đảo lớn của cả nước với các loại
hình du lịch đặc trưng là nghỉ dưỡng, giải trí, khám phá.
Thành phố Cần Thơ hiện được coi là đô thị
du lịch của vùng ĐBSCL với nhiều ưu thế để phát triển các loại hình du lịch hỗn
hợp như du lịch văn hóa truyền thống, du lịch sông nước, du lịch sinh thái vườn
trái cây,…
Bảng
4.6. Một số điểm du lịch thu hút du khách tại vùng ĐBSCL
TT
|
Điểm du lịch
|
Địa chỉ
|
Nội dung
|
|
LONG
AN
|
|
|
1
|
Bảo
tàng Long An
|
Tân
An
|
Thăm
quan, nghiên cứu lịch sử
|
2
|
Trại
rắn Mộc Hoá
|
Huyện
Mộc Hoá
|
Thăm
quan, nghiên cứu
|
3
|
Khu
bảo tồn thiên nhiên Láng Sen
|
Huyện
Tân Hưng
|
Thăm
quan, thắng cảnh
|
|
TIỀN
GIANG
|
|
|
4
|
Chùa
Vĩnh Tràng
|
Thành
phố Mỹ Tho
|
Thăm
quan, tâm linh
|
5
|
Cù
lao Thới Sơn
|
Huyện
Gò Công
|
Thăm
quan sinh thái, miệt vườn
|
6
|
Trại
rắn Đồng Tâm
|
Huyện
Đồng Tâm
|
Thăm
quan, nghiên cứu
|
7
|
Chợ
nổi Cái Bè, cù lao Tân Phong
|
Huyện
Cái Bè
|
Thăm
quan sinh thái, miệt vườn
|
|
VĨNH
LONG
|
|
|
8
|
Cù
lao Bình Hoà Phước
|
|
Thăm
quan miệt vườn
|
9
|
Khu
du lịch Trường An
|
Thành
phố Vĩnh Long
|
Thăm
quan, vui chơi giải trí
|
|
BẾN
TRE
|
|
|
10
|
Di
tích Đồng Khởi
|
Huyện
Mỏ Cày
|
Thăm
quan, nghiên cứu
|
11
|
Sân
chim Ba Tri
|
Huyện
Ba Tri
|
Thăm
quan, khám phá
|
12
|
Làng
cây cảnh Cái Mơn
|
Huyện
Chợ Lách
|
Thăm
quan miệt vườn
|
13
|
Cồn
Phụng, Cồn Quy, Cồn Ốc
|
|
Thăm
quan sinh thái, miệt vườn
|
|
ĐỒNG
THÁP
|
|
|
14
|
Mộ
cụ Nguyễn Sinh Sắc
|
Thị
xã Sa Đéc
|
Thăm
quan, nghiên cứu
|
15
|
Vườn
cò Tháp Mười
|
Huyên
Tháp Mười
|
Tham
quan, nghiên cứu, khám phá
|
16
|
Vườn
sếu Tam Nông
|
Tam
Nông
|
Thăm
quan, nghiên cứu, khám phá
|
17
|
Vườn
cây cảnh Sa Đéc
|
Thị
xã Sa Đéc
|
Thăm
quan miệt vườn
|
TT
|
Điểm du lịch
|
Địa chỉ
|
Nội dung
|
|
CẦN
THƠ
|
|
|
18
|
Bến
Ninh Kiều
|
Thành
phố Cần Thơ
|
Thăm
quan lịch sử
|
19
|
Chợ
nổi Cái Răng, Phong Điền
|
|
Thăm
quan sinh thái, miệt vườn
|
20
|
Viện
lúa ĐBSCL
|
Thành
phố Cần Thơ
|
Thăm
quan, nghiên cứu
|
21
|
Đại
học Cần Thơ
|
Thành
phố Cần Thơ
|
Thăm
quan
|
TT
|
Điểm du lịch
|
Địa chỉ
|
Nội dung
|
|
AN
GIANG
|
|
|
22
|
Khu
di tích đồi Tức Dục
|
Huyện
Tri Tôn
|
Thăm
quan lịch sử
|
23
|
Nhà
lưu niệm Bác Tôn
|
Thành
phố Long Xuyên
|
Thăm
quan di tích lịch sử
|
24
|
Đình
Châu Phú
|
Thị
xã Châu Đốc
|
Thăm
quan di tích
|
25
|
Làng
Chăm
|
Thị
xã Châu Đốc
|
Thăm
quan, nghiên cứu
|
|
KIÊN
GIANG
|
|
|
26
|
Hòn
phụ tử - Chùa Hang
|
Huyện
Hà Tiên
|
Thăm
quan, lễ hội
|
27
|
Đình
Nguyễn Trung Trực
|
Rạch
Giá
|
Thăm
quan lịch sử
|
28
|
Chùa
Sắc Tứ Tam Bảo
|
Rạch
Giá
|
Thăm
quan, tâm linh
|
29
|
Thạch
Động
|
Thị
xã Hà Tiên
|
Thăm
quan, nghiên cứu
|
30
|
Mũi
Nai
|
Thị
xã Hà Tiên
|
Nghỉ
dưỡng tắm biển
|
31
|
Hòn
Đất
|
Huyện
Hòn Đất
|
Thăm
quan, khám phá
|
32
|
Phú
Quốc
|
Huyện
Phú quốc
|
Nghỉ
dưỡng, khám phá, giải trí
|
Nguồn: Hiệp hội Du lịch
vùng ĐBSCL và nghiên cứu, khảo sát của tác giả 2015
Đồng
bằng sông Cửu Long là khu vực có những tiềm năng du lịch dồi dào và độc đáo,
không giống bất kỳ vùng miền nào trên cả nước, du lịch ở đây hấp dẫn không chỉ ở
cảnh quan thiên nhiên mà cả tính cách con người đất phương Nam cũng là một “sản
phẩm du lịch đặc sắc”.
Tuy
nhiên, đi sâu nghiên cứu mỗi tỉnh trong Vùng cũng có những điểm du lịch lý thú
mà chưa được khám phá hết như: Đồng Tháp có vườn Quốc gia Tràm Chim, có hệ sinh
thái độc đáo; Hậu Giang có Lung Ngọc Hoàng, một sinh cảnh thiên nhiên đặc biệt;
Cà Mau có U Minh Hạ, rừng ngập nước ngọt, rừng đước nước mặn, khu Đất Mũi nên
thơ và Hòn Khoai lịch sử; Bến Tre có 2 làng nghề nổi tiếng như làng Nghêu Bình
Đại, làng mỹ nghệ từ cây dừa; ở huyện Châu Thành, Tiền Giang có Cù lao Phú Sơn;
đất Gò Công sản sinh ra 2 Hoàng Hậu; Vĩnh Long có làng gốm, làng bưởi 5 roi nổi
tiếng (Bình Minh); Kiên Giang có chùa Hang, cảnh đẹp Hà Tiên nổi tiếng và đảo
Phú Quốc hấp dẫn . Riêng An Giang, địa phương duy nhất ở ĐBSCL có vùng núi nổi
tiếng - Thất Sơn, núi Sam, núi Sập, Ba Thê tiềm năng lớn cho thăm quan du lịch
và du lịch tâm linh...
Những
năm vừa qua du lịch vùng ĐBSCL luôn thu hút một lượng lớn khách du lịch trong
và ngoài nước, lượng khách du lịch trong Vùng đều đạt mức tăng ổn định, đây
chính là một tín hiệu lạc quan không chỉ đối với du lịch Vùng Đồng bằng sông Cửu
Long mà của cả ngành du lịch Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, do điều kiện tự
nhiên và lịch sử tương đối đồng nhất, nên các tài nguyên và sản phẩm du lịch
vùng ĐBSCL có nhiều đặc tính chung, từ đó sản phẩm du lịch của Vùng dễ bị trùng
lắp, gây khó khăn trong việc thu hút khách và giữ khách, đồng thời dễ nảy sinh
những hiện tượng cạnh tranh trong nội bộ Vùng làm giảm hiệu quả kinh doanh du lịch
và ảnh hướng tới hình ảnh, cũng như chất lượng sản phẩm du lịch nói chung của
toàn vùng ĐBSCL.
Chính sách và giải pháp phát triển sản phẩm du
lịch của Vùng
·
Chính sách phát triển sản phẩm du lịch
của Vùng
- Phát huy thế mạnh về điều kiện tự nhiên,
văn hóa đặc trưng của từng địa phương trong vùng, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch phù hợp với thế mạnh của từng địa
phương trong Vùng, chú trọng phát triển
các sản phẩm du lịch “xanh”.
- Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản
phẩm du lịch của vùng ĐBSCL, đáp ứng nhu cầu của du khách trong và ngoài nước.
- Phát triển một số sản phẩm du lịch đặc
trưng của Vùng như:
du lịch sinh thái miệt vườn; du lịch văn hóa cội nguồn; du lịch tham quan miệt vườn, sông
nước;
du lịch tham quan di tích; du lịch lễ hội, tín ngưỡng; du lịch
nghỉ dưỡng biển đảo
·
Giải pháp phát triển sản phẩm du lịch
của Vùng
Để du lịch của vùng thật sự trở thành điểm
sáng thu hút được du khách trong và ngoài nước đến ĐBSCL trước hết cần duy trì
các yếu tố tự nhiên và văn hóa đặc trưng ở mỗi địa phương, từ cơ sở những điều
kiện sẵn có ngày càng nâng cao chất lượng cũng như quan tâm đến việc đa dạng
hóa các sản phẩm du lịch một cách có hệ thống, đồng bộ. Đồng thời, phát triển
các sản phẩm du lịch không gây ảnh hưởng đến môi trường mà thế giới đang hướng
đến là các sản phẩm du lịch “xanh”.
Các địa phương trong vùng ĐBSCL cần khẩn
trương xây dựng những chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án “Xây dựng sản phẩm
du lịch đặc thù vùng ĐBSCL” theo Quyết định số 194/QĐ-BVHTTDL ngày 23-01-2015 của Bộ trưởng Bộ
Văn hóa - Thể thao và Du lịch. Trong đó, cần chú trọng 3
nội dung có tính đột phá là: (1)
Xây dựng cơ chế, chính sách điều phối liên kết vùng phát triển du lịch (2) Tạo
nguồn lực vật chất đầu tư (3) Phát triển nguồn nhân lực du lịch để triển khai thực hiện đề án.
Du
lịch vùng ĐBSCL cần phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, có sức thu hút
cao, ấn tượng, đa dạng, phong phú ở từng địa phương, và liên kết cả vùng không
trùng lắp. Không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Các địa
phương trong Vùng tổ chức triển khai điều tra, khảo sát, thống kê, đánh giá,
phân tích, tổng hợp tiềm năng du lịch của từng tỉnh, từng khu vực gắn với những
nét đặc trưng về văn hóa, lịch sử, con người, để phát triển các sản phẩm du
lịch đặc thù.
Căn
cứ vào thế mạnh tài nguyên thiên nhiên, những nét văn hoá đặc trưng của Vùng và
thị hiếu của du khách trong và ngoài nước, ĐBSCL cần tập trung phát triển những
dòng sản phẩm du lịch chính là:
- Sản phẩm du lịch sinh thái: Sản
phẩm du lịch này bao gồm trong nó những giá trị tiêu biểu nhất của sông nước
vùng ĐBSCL mà không thể có được ở bất cứ vùng miền nào trong cả nước, nó gắn liền
với các cù lao và vùng đất ven sông, sinh hoạt sông nước truyền thống như chợ nổi
gắn với cảnh quan sông nước lồng trong không gian văn hóa đờn ca tài tử đậm “chất”
Nam Bộ. Các sản phẩm du lịch sinh thái đặc
thù tại ĐBSCL như du lịch sinh thái tại các sân chim, tràm chim, rừng tràm ngập
nước nội địa vùng Đồng Tháp Mười tại Vườn Quốc gia Tràm Chim. Các khu vực này
kết nối thuận tiện bằng đường thủy, bắt đầu tại huyện Tân Hưng (Long An) và kết
thúc tại huyện Tam Nông (Đồng Tháp); du lịch sinh thái tại các sân chim, rừng
tràm, rừng đước ngập mặn bán đảo Cà Mau; Du lịch sinh thái biển đảo tại Phú Quốc
như lặn biển, khám phá hệ sinh thái biển đảo san hô, các loài thủy sinh, bò
biển... kết hợp với khám phá rừng, núi, suối, thác trên đảo. Hiện nay du lịch
trên đảo ngày càng tăng trưởng và phát triển mạnh với đường hàng không quốc tế
và nội địa thuận lợi, cơ sở hạ tầng được đầu tư nhanh, cơ sở lưu trú phát triển
mạnh. Chính phủ đã có chủ trương xây dựng đặc khu kinh tế Phú Quốc để phát
triển toàn diện đảo ngọc Phú Quốc, trong đó mũi nhọn đột phá là phát triển du
lịch toàn diện, đa dạng.
- Sản phẩm du lịch văn hóa cội nguồn: do các địa phương trong vùng nhìn
chung có những nét văn hóa tương đồng, nên loại hình này chỉ nên được phát
triển tại những nơi có những nét văn hoá đặc sắc nhất, và có điều kiện thuận
lợi nhất. Các hoạt động gắn liền với loại hình du lịch này là tham quan, nghiên
cứu tìm hiểu văn hóa, đời sống người dân trên các cồn như Hưng Phong, Tân Lộc,
tham quan làng Việt cổ tại Long Tuyền Cần Thơ - nơi đây còn giữ lại được nhiều
ngôi nhà cổ với các vật dụng quí giá từ đầu thế kỷ 20, tham quan tìm hiểu đời
sống, truyền thống văn hóa, sản xuất của đồng bào dân tộc Khmer tại Sóc Trăng
và Tịnh Biên - An Giang, đồng bào Chăm tại Châu Đốc và Hà Tiên gắn với dòng họ
Mạc. Ngoài ra, còn sản phẩm du lịch gắn với tham quan nghiên cứu di tích khảo
cổ tại thành cổ Óc Eo (An Giang) là một sản phẩm đặc sắc của An Giang và cả
vùng. Bảo tàng Khơ Me tại Sóc Trăng cần được đầu tư thỏa đáng để trở thành một
điểm du lịch hấp dẫn của vùng. Viện lúa ĐBSCL hiện là một điểm tham quan của
Cần Thơ, nên được đầu tư bổ sung theo hướng phúc vụ du lịch ví dụ xây dựng Bảo
tàng lúa nước sẽ hoàn toàn có thể trở thành một điểm tham quan không thể thiếu
trong các tour du lịch của ĐBSCL.
- Sản phẩm du lịch tham quan miệt
vườn, sông nước:
Đây chính là sản phẩm đặc thù nhất của ĐBSCL, và cũng là sản phẩm thường gặp
nhất ở du lịch vùng ĐBSCL. Hiện nay, khách du lịch của sản phẩm này thường đến
các tỉnh như Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long và Cần Thơ, Hậu Giang. Các đối
tượng tham quan chủ yếu là miệt vườn, đi thuyền tham quan chợ nổi và các khu du
lịch do người dân tự đầu tư với các hoạt động chủ yếu là thưởng thức cây trái,
ẩm thực, tham quan các công đoạn làm bánh tráng, nấu rượu, đan lộp, đan lưới,
làm kẹo dừa mang tính trình diễn phục vụ du lịch. Tuy nhiên, những hoạt động du
lịch gần tương tự, đặt trong bối cảnh tự nhiên tương đồng, lại mang tính chất
thương mại, trình diễn nên sản phẩm du lịch của các địa phương trên bị hiểu
nhầm là đơn điệu và nhàm chán. Để khắc phục tình trạng này cần có thiết kế sản
phẩm phù hợp từng nhóm đối tượng, từng phân đoạn thị trường riêng biệt.
+
Đối với các đoàn khách lớn, mang tính đại trà thì những sản phẩm này là phù
hợp, sản phẩm này dành cho các đoàn khách có thể được cung cấp tại các khu vực:
Thới Sơn (Tiền Giang), Cồn Phụng và bảy xã ven sông (Châu Thành, Bến Tre) gắn
với chợ nổi Cái Bè, cù lao An Bình, như tại khu vực nhà ông Sáu Giáo và vườn
ông Năm (huyện Long Hồ, Vĩnh Long) và khu vực Phong Điền với làng du lịch Mỹ
Khánh (huyện Phong Điền, Cần Thơ) và cồn Ấu gắn với các chợ nổi Phong Điền, Cái
Răng, Phụng Hiệp.
+
Các đoàn khách du lịch nhỏ hoặc các nhóm khách lẻ cần hướng tới các khu vực
khác ít mang tính thương mại hơn, tự nhiên hơn, gần gũi với đời sống thực của
người dân như tại cồn Ốc (Hưng Phong, Giồng Trôm, Bến Tre), cồn Quy và cồn Tiên
(Bến Tre), cồn Tân Lộc (Cần Thơ), làng Chăm Phũm Xoài (An Giang).
- Du lịch tham quan di tích: Loại hình du lịch này tham quan các
di tích lịch sử cách mạng gắn liền với lịch sử khai mở, xây dựng và đấu tranh
thống nhất đất nước trong thời kì cận đại và hiện đại, có thể chia nhóm tài
nguyên du lịch này thành 02 loại chính là thăm quan các di tích gắn
với cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; thăm quan các di tích lịch sử và
di tích gắn với danh nhân trước thời kì Pháp thuộc.
+ Các di tích trong thời kỳ chống Pháp, chống
Mỹ bao gồm các chiến khu, trong đó nổi trội nhất là căn cứ Năm Căn tại Cà Mau,
khu căn cứ Trung ương cục miền Nam (tại Hoa Mai, U Minh Thượng, Kiên Giang), xứ
ủy Nam kỳ (tại Bến Tre), các chiến trường nổi tiếng như Ấp Bắc (Tiền Giang),
chiến thắng Tầm Vu (Hậu Giang), di tích Đồng Khởi (Bến Tre), các nhà tù nơi địch
giam giữ đồng bào, chiến sỹ trong đó nổi tiếng nhất là nhà tù Phú Quốc, nhà tưởng
niệm các lãnh tụ (Bác Hồ, Bác Tôn, bà
Nguyễn Thị Định...).
+ Các di tích thời kỳ cận hiện đại có thể
kể đến chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, thành Trương Công Định (Tiền Giang), đền
thờ Nguyễn Đình Chiểu (Bến Tre), lăng Thoại Ngọc Hầu (An Giang), lăng Cửu Mạc
(Kiên Giang)...
- Phát triển sản phẩm du lịch lễ
hội, tín ngưỡng:
Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều lễ hội thu hút lượng vô cùng lớn khách du
lịch. Nổi bật nhất là Lễ hội vía bà chúa Xứ (An Giang) thu hút
hàng triệu khách du lịch nội địa trong năm; Lễ hội đua bò Bảy Núi (An Giang) thu hút
hàng chục ngàn khách du lịch;
Lễ
hội Ok Om Bok và đua ghe ngo Sóc Trăng; Lễ hội nghinh ông Nam Hải (Mỹ Long, Cầu
Ngang, Trà Vinh;
Lễ
Chon Chnam Thmay (lễ đón năm mới của người Khơ Me); Lễ hội trái cây (Bến
Tre). Trong đó, lễ hội
vía bà chúa xứ là lễ hội thu hút khách nội địa lớn nhất. Các lễ hội Ok Om Bok,
đua ghe ngo và đua bò Bảy Núi là những lễ hội có khả năng thu hút khách quốc tế
cao.Tuy nhiên để những lễ hội này có thể thu hút được thị trường khách ngoại
vùng, đặc biệt là khách quốc tế thì cần được nghiên cứu tổ chức theo hướng phục
vụ du lịch, và đặc biệt là có các nội dung và phương thức quảng bá, xúc tiến
phù hợp.
- Du lịch thương mại, công vụ
(MICE): Loại hình
du lịch MICE phù hợp nhất là tại Cần Thơ và Phú Quốc. Với vị trí là trung tâm
kinh tế - văn hóa - xã hội của một vùng rộng lớn, đông dân, trù phú, Cần Thơ có
đầy đủ điều kiện phát triển du lịch gắn với thương mại, Phú Quốc có sự hấp dẫn
của hòn đảo biệt lập, có môi trường trong lành, nguyên sơ, với những sản phẩm
và dịch vụ chất lượng cao phù hợp với việc tổ chức các sự kiện, hội thảo quốc
tế, các chuyến nghỉ mát xây dựng tinh thần tập thể của các doanh nghiệp
(incentives, corporate events). Đây chính là thế mạnh đặc biệt của Phú Quốc và
thực tế thời gian qua rất nhiều các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp nước ngoài đã
tổ chức các hoạt động này tại Phú Quốc.Trong tương lai Phú Quốc hoàn toàn có đủ
sức cạnh tranh thị trường này với các điểm đến khác trong khu vực.
- Du lịch nghỉ dưỡng biển đảo: Đây cũng là thế mạnh của vùng ĐBSCL
với các địa danh như Phú Quốc, Cà Mau, Hà Tiên.
Do nhiều khu vực trong vùng ĐBSCL có điều
kiện tương đối tương đồng về tự nhiên, văn hoá, xã hội nên những sản phẩm du lịch
dễ bị trùng lặp. Để khắc phục tình trạng này, đồng thời nâng cao khả năng cạnh
tranh, sức hấp dẫn của sản phẩm du lịch của Vùng, thì các địa phương trong Vùng
chỉ nên đầu tư phát triển một số loại hình sản phẩm du lịch đặc trưng gắn với
nguồn lực tài nguyên nổi bật nhất và các điều kiện có liên quan thuận lợi nhất,
không nên phát triển dàn trải dễ tạo ra sự trùng lắp và nhàm chán cho du khách
khi đến du lịch vùng ĐBSCL.
Tóm lại, Đồng bằng Sông Cửu Long là một vùng có đầy đủ
các tiềm năng và yếu tố để phát triển sản phẩm dịch vụ du lịch đặc sắc, hấp dẫn;
do đó, ngành du lịch của Vùng hoàn toàn có thể thay đổi thực trạng hiện tại bằng
việc sớm triển khai các giải pháp phát triển sản phẩm du lịch Vùng Đồng bằng
Sông Cửu Long. Điều này có ý nghĩa to lớn không chỉ riêng cho sự phát triển du
lịch Vùng đồng bằng Sông Cửu Long mà còn cho cả các doanh nghiệp, các tố chức
khác có thêm cơ hội để hội nhập, phát triển và thu hút đầu tư đem lại diện mạo
mới cho Vùng.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO:
Quyết định số 201/QĐ –
TTg về phê duyệt “ Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030”
Quyết định số 803/QĐ –
BVHTTDL về việc phê duyệt “đề án phát triển du lịch Đồng Bằng Sông Cửu Long đến
năm 2020”.
Viện nghiên cứu phát
triển du lịch, Báo cáo tổng hợp “ Chiến lược phát triển du lịch
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Nhà Xuất bản Lao động, Hà Nội”.
Viện chiến lược phát
triển, Bộ kế hoạch Đầu tư, Các vùng, tỉnh, thành trực thuộc Trung
ương: Tiềm năng và triển vọng đến năm 2020, Nhà Xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2009.
World Economy Forum, The Travel & Tourism Competitiveness
Report 2013 – Reducing Barriers to Economic Growth and Job Creation.
World Travel &
Tourism Council “Travel & Tourism, Economic
Impact 2013, Viet Nam”.
Tiến sĩ: NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG
(Tổng
công ty Thái Sơn – Bộ quốc phòng)
Nhận xét
Đăng nhận xét