Chuyên đề "Phát triển du lịch Đồng bằng Sông Cửu Long trong hội nhập quốc tế" - TS.Nguyễn Hoàng Phương
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
4.1. Tổng quan du lịch vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế
4.1.1 Điều
kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá - xã hội ảnh hưởng đến phát triển du lịch vùng
Đồng bằng Sông Cửu Long
ĐBSCL được xác định là một trong bảy vùng kinh tế
quan trọng nằm ở cực Nam của lãnh thổ Việt Nam với vị trí địa lí thuận lợi,
ĐBSCL là cầu nối giao thương giữa các nước trong khu vực. ĐBSCL là nơi được
thiên nhiên ưu đãi với khí hậu ôn hòa, hệ thống sông ngòi chằng chịt, hệ sinh
thái đa dạng,… Sự phát triển không ngừng của ĐBSCL trong những năm qua luôn hàm
chứa những giá trị văn hóa tinh thần lớn lao, đó là sự kết tinh từ bao công sức
của những người đi khai hoang, mở mang vùng đất mới và của biết bao thế hệ đã
góp sức dựng nên. Theo thời gian các giá trị văn hóa của mảnh đất này ngày càng
được khẳng định và phát triển một cách mạnh mẽ, bền vững. Những ưu thế này giúp
ĐBSCL có khả năng đa dạng hóa các loại hình du lịch, từ tham quan, nghỉ mát
điều dưỡng, tắm biển, thể thao, leo núi đến nghiên cứu khoa học,…có thể trở
thành điểm đến lí tưởng cho du khách trong và ngoài nước khi muốn khám phá đời
sống vùng sông nước. Trong thời gian qua hệ thống cơ sở vật chất của vùng ĐBSCL
không ngừng được nâng cấp và hoàn thiện, góp phần thúc đẩy sự phát triển du
lịch của Vùng.
Vẻ đẹp rừng U Minh |
4.1.2 Các
chỉ tiêu chủ yếu về phát triển du lịch của vùng ĐBSCL giai đoạn 2000-2015
Lượng khách du lịch quốc nội và quốc tế đến Vùng
tăng đều qua các năm, vì vậy thu nhập từ du lịch cũng có sự tăng trưởng góp phần
cải thiện cuộc sống của người dân trong Vùng.
Hệ thống cơ sở vật chất đã và đang được chú trọng đầu tư tại các địa phương,
cơ sở lưu trú ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Kèm theo đó các điểm
vui chơi giải trí, cơ sở ăn uống cũng phát triển đáp ứng được nhu cầu của du
khách. Hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường hàng không đã và đang
được nâng cấp để đáp ứng sự phát triển du lịch của Vùng. Vì vậy, số lượng khách
du lịch đến Đồng bằng Sông Cửu Long nhờ vậy cũng đã tăng trưởng và hiện (2015)
đạt gần 20 triệu lượt khách/ năm, trong đó có gần 1,5 triệu khách quốc tế, điều
này đã tạo tiền đề để du lịch Đồng bằng Sông Cửu Long phát triển mạnh hơn trong
tương lai khi hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng.
Bảng 4.2: Lượng khách du lịch quốc tế đến các địa phương vùng ĐBSCL giai
đoạn 2000-2015
Đơn vị tính: nghìn lượt người
4.2.1 Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch của
Vùng
Nghiên cứu cho thấy ĐBSCL có thể
phát triển các sản phẩm du lịch đặc trưng như: Du lịch sinh thái; Du lịch khai
thác các giá trị văn hóa sông nước miệt vườn; Du lịch khám phá; Du lịch nghỉ
dưỡng; Du lịch sinh thái biển đảo; Du lịch MICE. Trong thời gian qua, các tuyến
điểm du lịch đã được các doanh nghiệp du lịch vùng ĐBSCL tổ chức khai thác tương đối có hiệu quả, phù hợp với tiềm năng du lịch của các tỉnh trong
Vùng, từ đó đã tạo nên một số sản phẩm du lịch độc đáo.
Bảng 4.3: Một số điểm du lịch thu hút du khách tại
vùng ĐBSCL
TT
|
Điểm du lịch
|
Địa điểm
|
Nội dung
|
LONG AN
|
|||
1
|
Bảo
tàng Long An
|
Tân An
|
Thăm
quan, nghiên cứu
lịch sử
|
2
|
Trại
rắn Mộc Hoá
|
Huyện
Mộc Hoá
|
Thăm
quan, nghiên cứu
|
3
|
Khu bảo
tồn thiên nhiên
Láng
Sen
|
Huyện
Tân Hưng
|
Thăm
quan, thắng cảnh
|
TIỀN GIANG
|
|||
4
|
Chùa
Vĩnh Tràng
|
Thành
phố Mỹ Tho
|
Thăm
quan, tâm linh
|
5
|
Cù lao
Thới Sơn
|
Huyện
Gò Công
|
Thăm
quan sinh thái,
miệt
vườn
|
6
|
Trại
rắn Đồng Tâm
|
Huyện
Đồng Tâm
|
Thăm
quan, nghiên cứu
|
7
|
Chợ nổi
Cái Bè, cù lao
Tân
Phong
|
Huyện
Cái Bè
|
Thăm
quan sinh thái,
miệt
vườn
|
VĨNH LONG
|
|||
8
|
Cù lao
Bình Hoà Phước
|
Thăm
quan miệt vườn
|
|
9
|
Khu du
lịch Trường An
|
Thành
phố Vĩnh
Long
|
Thăm
quan, vui chơi
giải
trí
|
BẾN TRE
|
|||
10
|
Di tích
Đồng Khởi
|
Huyện
Mỏ Cày
|
Thăm
quan, nghiên cứu
|
11
|
Sân
chim Ba Tri
|
Huyện
Ba Tri
|
Thăm
quan, khám phá
|
12
|
Làng
cây cảnh Cái Mơn
|
Huyện
Chợ Lách
|
Thăm
quan miệt
|
13
|
Cồn
Phụng, Cồn Quy,
Cồn Ốc
|
Thăm
quan sinh thái,
miệt
vườn
|
TT
|
Điểm du
lịch
|
Địa chỉ
|
Nội dung
|
ĐỒNG THÁP |
|||
14
|
Mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc
|
Thị xã Sa Đéc
|
Thăm quan, nghiên cứu
|
15
|
Vườn cò Tháp Mười
|
Huyện Tháp Mười
|
Tham quan, nghiên
cứu, khám phá
|
16
|
Vườn sếu Tam Nông
|
Tam Nông
|
Thăm quan, nghiên
cứu, khám phá
|
17
|
Vườn cây cảnh Sa Đéc
|
Thị xã Sa Đéc
|
Thăm quan miệt vườn
|
CẦN THƠ |
|||
18
|
Bến Ninh Kiều
|
Thành phố Cần Thơ
|
Thăm quan lịch sử
|
19
|
Chợ nổi Cái Răng,
Phong Điền
|
Thăm quan sinh thái,
miệt vườn
|
|
20
|
Viện lúa ĐBSCL
|
Thành phố Cần Thơ
|
Thăm quan, nghiên cứu
|
21
|
Đại học Cần Thơ
|
Thành phố Cần Thơ
|
Thăm quan
|
AN GIANG |
|||
22
|
Khu di tích đồi Tức Dục
|
Huyện Tri Tôn
|
Thăm quan lịch sử
|
23
|
Nhà lưu niệm Bác Tôn
|
Thành phố Long
Xuyên
|
Thăm quan di tích lịch
sử
|
24
|
Đình Châu Phú
|
Thị xã Châu Đốc
|
Thăm quan di tích
|
25
|
Làng Chăm
|
Thị xã Châu Đốc
|
Thăm quan, nghiên cứu
|
KIÊN GIANG |
|||
26
|
Hòn phụ tử - Chùa Hang
|
Huyện
bà Tiên
|
Tham quan, lễ hội
|
27
|
Đình Nguyễn Trung
Trực
|
Rạch Giá
|
Thăm quan lịch sử
|
28
|
Chùa Sắc Tứ Tam Bảo
|
Rạch Giá
|
Thăm quan, tâm linh
|
29
|
Thạch Động
|
Thị xã Hà Tiên
|
Thăm quan, nghiên cứu
|
30
|
Mũi Nai
|
Thị xã Hà Tiên
|
Nghỉ
|
31
|
Hòn Đất
|
Huyện Hòn Đất
|
Thăm quan, khám phá
|
32
|
Phú Quốc
|
Huyện Phú quốc
|
Nghỉ dưỡng, khám phá,
giải trí
|
Những năm vừa qua du lịch vùng ĐBSCL đã thu hút một
lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước, lượng khách du lịch trong Vùng đều
đạt mức tăng ổn định, đây chính là một tín hiệu lạc quan đối với du lịch Vùng
Đồng bằng Sông Cửu Long và của cả ngành du lịch Việt Nam nói chung. Tuy nhiên,
do điều kiện tự nhiên và lịch sử tương đối đồng nhất, nên các tài nguyên và sản
phẩm du lịch vùng ĐBSCL có nhiều đặc tính chung, từ đó sản phẩm du lịch của
Vùng dễ bị trùng lắp, gây khó khăn trong việc thu hút khách và giữ khách, đồng
thời dễ nảy sinh những hiện tượng cạnh tranh trong nội bộ Vùng, làm giảm hiệu
quả kinh doanh du lịch và ảnh hướng tới hình ảnh, cũng như chất lượng sản phẩm
du lịch của toàn vùng ĐBSCL.
4.2.2. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch
Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch của Vùng luôn
nhận được sự quan tâm đặc biệt của Hiệp hội du lịch vùng ĐBSCL, của các sở, ban
ngành trong Vùng. Thông qua các chương trình tham quan du lịch, các tour du lịch
với các địa phương trong nước, các chương trình du lịch outbound đến Campuchia,
Hồng Kông, Trung Quốc,…công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch của
Vùng đã đạt được những kết quả nhất định. Nhìn chung hoạt động xúc tiến, quảng
bá du lịch vùng ĐBSCL đã có hiệu quả nhất định, nhưng chưa tạo sức lan tỏa và
hiệu ứng lớn đến phát triển du lịch của Vùng, nguyên nhân chính là do cách thức
xúc tiến, quảng bá du lịch còn lạc hậu, chưa có sự đột phá – đổi mới từ đó chưa
gây được ấn tượng mạnh đối với du khách, chưa có sự liên kết với các tổ chức du
lịch nước ngoài để mở rộng hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch.
4.2.3. Hoạt động đầu tư phát triển du lịch của Vùng
ĐBSCL
Để tạo điều kiện cho du lịch phát triển vùng ĐBSCL,
các dự án quan trọng trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, nhiều hạng mục cho phát
triển du lịch vùng ĐBSCL đã được đầu tư phát triển, nguồn vốn đầu tư này đã góp
phần quan trọng vào phát triển du lịch vùng ĐBSCL. Kinh phí đầu tư cho phát
triển du lịch vùng ĐBSCL được huy động cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, so với cả nước và một số vùng khác thì nguồn vốn đầu tư
cho phát triển du lịch vùng ĐBSCL còn chiếm tỷ lệ thấp.
4.2.4. Thực trạng nguồn nhân lực
cho phát triển lịch vùng ĐBSCL
Con người luôn đóng một vai trò quan trọng trong
các hoạt động kinh tế, cũng như du lịch nói riêng. Hiểu được điều này nên trong
thời gian qua ĐBSCL luôn chú trọng đến việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
cho phát triển kinh tế - xã hội và du lịch. Chính vì vậy, nguồn nhân lực của
Vùng cũng như nguồn nhân lực cho ngành du lịch đã được cải thiện đáng kể về số
lượng, chất lượng và cơ cấu, góp phần cho sự phát triển kinh tế - xã hội và du
lịch của vùng ĐBSCL.
Trong những năm gần đây, mặc dù nguồn nhân lực cho
phát triển du lịch của Vùng đã có những bước phát triển nhất định nhưng còn nhiều
bất cập thiếu về số lượng, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lí, chất lượng nguồn nhân
lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển ngành du lịch trong bối cảnh hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng. Nguồn nhân lực cho phát triển du lịch vùng ĐBSCL chưa
được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ một cách có hệ thống, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và ngoại ngữ chưa đáp ứng được nhu cầu cho phát triển du lịch của
Vùng trong hội nhập quốc tế.
4.2.5 Tác
động của hội nhập quốc tế với sự phát triển du lịch vùng ĐBSCL
Sự phát triển của du lịch không nằm ngoài quy luật
khách quan của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hơn thế nữa, với đặc
điểm là ngành kinh tế “liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao”, sự phát triển
du lịch không thể bó hẹp trong một lãnh thổ “khép kín” mà luôn vươn ra khỏi phạm
vi hành chính một địa phương, một quốc gia, một khu vực. Quá trình hội nhập quốc
tế đã tạo ra sự liên kết giữa các điểm du lịch, các nhà cung cấp, tạo cơ hội học
hỏi, trao đổi kinh nghiệm giữa các quốc gia, chuyển giao công nghệ quản lí, quảng
bá thương hiệu và mở rộng thị trường du lịch của mỗi nước. Hội nhập quốc tế còn
là cơ hội để thu hút đầu tư từ nước ngoài, thúc đẩy quảng bá du lịch vùng ĐBSCL
ra nước ngoài, góp phần gia tăng thị phần du lịch của vùng ĐBSCL, mở rộng
thị trường, khai thác những lợi thế về du lịch của Vùng và phát triển những loại
hình du lịch mới. Bên cạnh những lợi ích trên, trong quá trình hội nhập cũng có
nhiều thách thức cho các doanh nghiệp cũng như cho chính quốc gia và các tổ chức
du lịch, đặc biệt là năng lực cạnh tranh được đặt lên hàng đầu vì nó quyết định
cho việc tồn tại và phát triển du lịch, nếu bỏ qua yếu tố này sẽ khó tồn tại trong
hệ thống du lịch toàn cầu mặc dù điểm đến có nhiều tiềm năng.
4.2.6 Thực trạng đảm bảo môi trường
cho du lịch vùng ĐBSCL Hiện nay, ĐBSCL đang phải đối mặt
với vấn đề môi trường đất, nước đang dần suy thoái mà nguyên nhân là do hoạt động
sản xuất của con người, các chất thải sinh hoạt, nước thải từ các khu công nghiệp,
các làng nghề, từ hoạt động trồng trọt, chế biến thủy hải sản,… Một trong những
vấn đề có tác động lớn, không chỉ vùng ĐBSCL mà cả nước và thế giới đang phải
đối mặt đó là hiện tượng hiệu ứng nhà kính và mực nước biển dâng. Môi trường ô
nhiễm ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái từ đó trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động
du lịch của Vùng. Chính vì vậy, để phát triển du lịch ĐBSCL một cách bền vững
và hiệu quả cần hướng tới việc bảo vệ môi trường bền vững, phát triển du lịch
phải gắn với bảo vệ môi trường, đây là vấn đề quan trọng và cấp bách được đặt
ra cho toàn Vùng.
4.2.7 Thực trạng an ninh, an toàn trong phát triển
du lịch vùng ĐBSCL
ĐBSCL có vị trí hết sức quan trọng về an ninh, quốc
phòng (QP – AN) đối với vùng Tây Nam bộ và cả nước. Trong những năm qua, các địa
phương ở ĐBSCL đã nhận thức đúng đắn về quan điểm phát triển bền vững kinh tế -
xã hội gắn với đảm bảo QP - AN của Đảng và Nhà nước nói chung và trong lĩnh vực
phát triển du lịch nói riêng. Tuy nhiên, quá trình phát triển du lịch gắn với bảo
đảm QP - AN ở ĐBSCL thời gian qua cũng còn nhiều vấn đề bất cập cần được tiếp tục
giải quyết, như: việc đầu tư cho phát triển du lịch gắn với bảo đảm QP - AN chưa
thật sự bền vững, chưa xứng với tiềm năng và nguồn lực của Vùng, một số đối tượng nước ngoài lợi dụng danh nghĩa du lịch để thực
hiện các hoạt động thu thập tình báo, móc nối gây cơ sở, hoạt động tôn giáo
trái pháp luật; tình trạng người nước ngoài du lịch tại đây hoạt động sai mục đích
nhập cảnh, vi phạm quy chế quản lý tạm trú và các vi phạm pháp luật khác diễn
ra khá phổ biến… một số hiện tượng tiêu cực khác như: ăn xin, bán hàng rong
không đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm, nạn trộm cắp, hoạt động của một số
băng, nhóm tội phạm trong Vùng, cũng làm ảnh hưởng đến sự an toàn, an ninh
trong phát triển du lịch của Vùng ĐBSCL.
4.2.8 Thực trạng quản lý nhà nước cho phát triển lịch
vùng ĐBSCL
Công tác quản lý nhà nước đối với phát triển du
lịch của Vùng chậm được đổi mới. Luật Du lịch và các luật liên quan, hệ thống
văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành luật còn thiếu đồng bộ, chưa huy động được
các nguồn lực cho phát triển du lịch của Vùng. Nhiều chính sách còn chồng chéo trói chân lẫn nhau. Việc quản lý nhà
nước về du lịch vẫn còn những hạn chế, bất cập cụ thể như trong các lĩnh vực:
vệ sinh môi trường, đảm bảo chất lượng sản phẩm, ứng dụng những công nghệ mới
trong hoạt động du lịch, đảm bảo vệ sinh thực phẩm và trong tuyên truyền quảng
bá sản phẩm du lịch... Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch còn cồng kềnh chưa
được hiện đại hóa so với tốc độ phát triển ngày càng nhanh của ngành du lịch
vùng ĐBSCL. Phương thức tổ chức và quản lý ngành du lịch vùng ĐBSCL còn nhiều
bất hợp lý, cơ chế phối hợp giữa các ban ngành liên quan đến du lịch chưa rõ
ràng, còn có sự chồng chéo. Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật chuyên
ngành chưa được hình thành, hợp chuẩn khu vực và quốc tế. Bộ máy của ngành du
lịch vùng ĐBSCL đã có đổi mới nhưng chưa thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả.
Một trong những hạn chế quan trọng trong quản lí có ảnh hưởng lớn đến phát
triển du lịch ĐBSCL là việc chưa tạo được sự liên kết du lịch giữa các địa
phương trong Vùng, sản phẩm du lịch đặc thù ở mỗi địa phương chưa được xác định
rõ nên xảy ra hiện tượng trùng lắp tạo nên sự cạnh tranh trong nội bộ Vùng.
4.3 Đánh giá về thực trạng phát triển du lịch vùng ĐBSCL
trong hội nhập quốc tế
4.3.1 Những thành tựu đạt được và nguyên nhân
Sự phát triển du lịch vùng ĐBSCL
trong những năm vừa qua đã đạt được nhiều thành tựu nhất định: góp phần cho sự phát
triển kinh tế, sự ổn định về chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng được đảm bảo,
góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm cho người lao động trong
Vùng; công tác tuyên truyền, quảng bá cho du lịch vùng ĐBSCL đã mang lại hiệu
quả nhất định; cơ sở vật chất kĩ thuật vùng ĐBSCL ngày càng phát triển, từng
bước đáp ứng và tạo điều kiện cho phát triển du lịch trong Vùng; công tác đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực cho phát triển du lịch trong Vùng cũng đã được
chú trọng đầu tư phát triển; các chương trình hành động quốc gia về du lịch
cùng với các sự kiện quảng bá, xúc tiến du lịch được thực hiện tương đối tốt, đã
mang lại hiệu quả nhất định; tình hình an ninh, chính trị, trật tự xã hội của
vùng tương đối ổn định, tạo sự an toàn và thân thiện đối với du khách; công tác
quản lí nhà nước về phát triển du lịch trên địa bàn từng bước được nâng cao.
4.3.2 Những hạn chế, yếu kém của du lịch ĐBSCL và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đạt được
du lịch Vùng vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định như: Việc liên kết, hợp
tác cùng phát triển giữa các địa phương trong vùng còn yếu; công tác xúc tiến,
quảng bá du lịch của Vùng vẫn chưa được thực hiện bài bản, chuyên nghiệp; hệ thống
cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém; số lượng, chất lượng và cơ cấu
nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển du lịch vùng ĐBSCL tuy đã được cải thiện
trong những năm gần đây nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế cho phát
triển du lịch; thu nhập, mức sống của người dân vẫn chưa được nâng cao; vai trò
quản lý nhà nước về phát triển du lịch vùng ĐBSCL còn hạn chế.
TS.Nguyễn Hoàng Phương
Nhận xét
Đăng nhận xét